header

DANH MUC


Muc luc

khoisukinhdoanh
khởi nghiệp
khởi nghiệp
doanhnhan
khởi nghiệp
Amazon
Yahoo
Facebook
Youtube
Skype Me™!

Liên l?c v?i chúng tôi

Sunday 29 June 2014

Ngành nông nghiệp – Nuôi bò sữa

  Bối cảnh ngành sữa thế giới

Ngành sữa Australia được cho là “thoái trào”. Để khắc phục hiện trạng đó các nhà khoa học đã thực hiện một dự án tên là “Horizon 2020 project Future dairy scenarios”. (Võ Văn Sự dịch)
Bối cảnh ngành sữa thế giới
Lời người dịch:
Ngành sữa Australia được cho là “thoái trào”. Để khắc phục hiện trạng đó các nhà khoa học đã thực hiện một dự án tên là “Horizon 2020 project Future dairy scenarios”. Trong báo cáo (khoảng 120 trang) dự án này có nhiều vấn đề mà ngành sữa non trẻ của ta nên quan tâm và có thể học hỏi. “Bối cảnh ngành sữa thế giới” là một phần như thế.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bản trích dịch nội dung này. Bản gốc có tại địa chỉ sau:
Võ Văn Sự (vovansu.vcn@gmail.com)– 01/05/2014
Contents
1.         Thời gian gần đây
2.         Nhu cầu toàn cầu sẽ vượt quá nguồn cung
3.         Hiện trạng và tương lai sản xuất sữa ở các vùng quan trọng
            3.1.      Châu Âu
            3.2.      Mỹ
            3.3.      Trung Quốc
            3.4.      Tân Tây lan
            3.5.      Australia
1.      Thời gian gần đây
Ngành sản xuất sữa toàn cầu đang đối mặt với thách thức của việc nhu cầu sữa đang tăng với tốc độ hiện tại trong thập kỷ tới. Trong thập kỷ qua việc buôn bán sữa bột trên toàn cầu khá ổn định, nhưng kể từ 2006 đã tăng tốc với mức 8% mỗi năm tính về khối lượng, do điều kiện thắt chặt hơn trên thị trường vốn đã được thắt chặt. Thương mại trong năm 2011 và dự kiến cả năm 2012 tăng trưởng 10% mỗi năm.
Tăng trưởng thương mại đã được đáp ứng bằng việc sản xuất sữa mạnh hơn và tăng trưởng xuất khẩu bởi các nhà xuất khẩu lớn, và việc đáp ứng cho giá cả đang cải thiện để trả cho người sản xuất.
Tăng trưởng nhu cầu xuất khẩu thế giới (ngàn tấn, 2001-2012)
Ghi chú: Infant Powder (Bột sữa trẻ con), Whey Powder (Bột váng sữa), SMP = Skim milk Powder (Bột sữa nghèo bơ); WMP - Whole milk powder - (Bột sữa toàn phần).
Tăng nhập khẩu sữa bột (ngàn tấn, 2001-2012)
2.      Nhu cầu toàn cầu sẽ vượt quá nguồn cung
Theo OECD - FAO cho đến năm 2020 sản lượng sữa dự kiến ​​của toàn cầu sẽ tăng ở mức 2% mỗi năm, trong khi đó nhu cầu về thương mại dành cho các thị trường đang phát triển sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn nhiều so với năng lực của các nhà xuất khẩu có thể cung cấp.
(Tăng trưởng kinh tế đã qua và kế hoạch ở các thị trường sữa Châu Á đang phát triển)
Cơ hội cho sự tăng trưởng nhu cầu về sữa ở phần thế giới đang phát triển là đáng kể và sẽ tiếp tục như thế với GDP tăng lên tạo nên tăng thu nhập của các gia đình. Tại đô thị do tăng di cư sẽ đẩy tăng trưởng nhu cầu sữa nhanh hơn ở một số vùng khác, vì dân chúng làm việc tại thành phối sẽ kiếm được nhiều tiền hơn và vì thế sẽ tìm kiếm một chế độ dinh dưỡng tốt hơn và đa dạng trong bữa ăn của họ.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ dự kiến trong nền kinh tế châu Á ​​và các nước Đông Bắc Phi (MENA) sẽ tạo cơ hội lớn nhất cho việc mở rộng thị trường sữa. Ngành sữa cũng sẽ được hình thành như là một yếu tố quan trọng trong việc tạo nên bữa ăn giàu protein ở các khu vực này.
3.      Hiện trạng và tương lai sản xuất sữa ở các vùng quan trọng
Các nhà cung cấp cạnh tranh lớn trên thị trường thế giới (EU, Mỹ và New Zealand) có năng lực đáng kể, tuy vậy họ cũng đang đối mặt với những hạn chế (sự hao mòn, tính bền vững, chi phí hệ thống) đáng kể ảnh hưởng tới sản xuất.
3.1.            Châu Âu
Đã có sự thay đổi các quy định trong ngành nông nghiệp (loại bỏ hạn ngạch và cải cách của Chính sách Nông nghiệp chung – gọi làThe Common Agricultural Policy - CAP) sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ hình dạng tương lai của ngành nông nghiệp ở EU, và sự liên đới trong thương mại thế giới.
Có sự định hình cơ bản lại ngành sữa của EU với dự đoán là vào năm 2015 sẽ loại bỏ hạn ngạch sản xuất, điều mà dự kiến ​​sẽ dẫn đến một số biến động trong cung ứng và giá bán.
Nhiều người dự đoán là sản xuất sẽ được mở rộng. Tăng trưởng sản xuất sữa mạnh nhất đi trước việc loại bỏ hạn ngạch được mong đợi từ các khu vực sản xuất cỏ có giá cả cạnh tranh. Bản đồ dưới cho thấy các vùng đó, đối lập với những khu vực ít khả năng bành trướng khác mà được dự kiến ​​sẽ phải đối mặt với thách thức lớn hơn trong một môi trường hỗn loạn hơn điều khiển kém.
Những thay đổi khác trong thời tiết khu vực - kết quả của biến đổi khí hậu được dự đoán ​​sẽ là một lợi thế cho châu Âu - đặc biệt là ở các khu vực có nhiều đồng cỏ nơi mà nhiệt độ nâng cao hơn sẽ giúp các nhà sản xuất sản xuất thức ăn.
• Các hợp tác xã lớn mong đợi tăng trưởng mạnh mẽ từ các nhà cung cấp cạnh tranh của họ. Trong năm 2012 Rabobank đưa ra dự báo dự kiến ​​có thêm 9 tỷ lít sữa có từ EU từ năm 2010 đến năm 2016.
Những yếu tố hạn chế sự phát triển ngành sản xuất sữa của EU:
• Nhiều khu vực đề cao có kiểu canh tác tư nhân hạn chế đến sự tập hợp
• Rủi ro tự cung tự cấp thức ăn chăn nuôi sẽ tăng thêm hơn.
• Tính cảnh giác và khép kín của các cộng đồng
• Về văn hóa và tài chính phụ thuộc cao vào các hỗ trợ, chẳng hạn như các khoản thanh toán EU- CAP
• Chi phí hạ tầng cơ sở trang trại cao
• Giá trị đất cao cấm chỉ người nhập cuộc mớo trẻ
 Tỷ số giữa vốn nợ và vốn cổ phần cao ở nhiều nước.
Châu Âu - thách thức từ CAP
Một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến năng lực sản xuất của ngành nông nghiệp EU là kết quả của các cuộc đàm phán hiện nay về tương lai của Chính sách Nông nghiệp chung (CAP).
Vai trò thay đổi của Nghị viện châu Âu sau Hiệp ước Lisbon đã biến đổi động cơ trong việc tái định dạng CAP, dẫn đến một "trialogue" (cuộc đối thoại hoặc gặp mặt ba hoặc nhiều bên) các cuộc đàm phán giữa Ủy ban châu Âu, các quốc gia thành viên của EU và Nghị viện, cân bằng áp lực ngân sách trên chi tiêu của CAP, biện pháp phát triển bền vững bao gồm phát triển trong khu vực; và an ninh lương thực của EU.
Có những rủi ro hơn nữa cho việc tiềm năng cung cấp sữa của EU đến từ các biện pháp cải cách CAP đang được tranh luận trong "trialogue" nói trên, bao gồm:
  • Mức độ và cấu trúc của thanh toán trang trại trực tiếp - đe dọa việc đơn giản hóa đồng dạng có thể có của các thanh khoản – cái thứ mà có thể làm thay đổi mức trả trên mỗi ha các nước thành viên EU.
  • Các giải pháp "Trải thảm xanh" (Greening) đe dọa hiệu quả sản xuất sữa.
 (Các biện pháp “Trải thảm xanh” đang tìm cách đàm phán CAP của EU: Các nhà hoạch định chính sách là nhằm mục đích cải thiện đa dạng sinh học của EU và giảm phát thải khí nhà kính: • Chuyển 7% diện tích đất nông nghiệp cho các mục đích sinh thái (đóng góp vào các mục tiêu về môi trường của EU); • Luân canh ít nhất 3 vụ trên đất canh tác; • Bảo trì các đồng cỏ lâu năm (tức “đóng băng” hiện trạng sử dụng đất hiện tại); • Trong bối cảnh cuộc tranh luận của CAP, có áp lực đáng kể vào ngân sách EU điều có thể đe dọa đến mức độ tổng thể thanh toán CAP và ưu đãi phát triển khu vực, góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ở các nước thành viên EU đang phát triển.
• Hiệp ước Lisbon đã đưa ra một động lực quan trọng liên quan đến việc xử lý động vật, trao nghĩa vụ phải xem xét quyền động vật trong việc truyền đạt pháp luật. Điều này đã kích hoạt động để tạo áp lực riêng biệt trên lĩnh vực nông nghiệp, đòi hỏi thay đổi tập quán canh tác bao gồm cả quyền lợi động vật cùng với cải cách các quy định của ngành công nghiệp.
3.2.            Mỹ
Mỹ có một ngành sữa rộng lớn, với năng lực sản xuất mạnh mẽ trong bối cảnh thị trường nội địa có tính chu kỳ cao, nơi mà giá cho các sản phẩm sữa tăng lên - giảm xuống, chi phí sữa thô và thức ăn thô đã trở nên mạnh hơn và thường xuyên.
Có tiêu hao đáng kể đang diễn ra và điều chỉnh trong ngành chăn nuôi bò sữa Mỹ. Trong 20 năm qua, đã giảm đến 60% số trang trại, nhưng kích thước trung bình mỗi đàn đã nâng 140%.
Nhìn chung trang trại hoạt động sử dụng hệ thống sản xuất quanh năm với đặc điểm chi phí cố định - cao theo tiêu chuẩn Nam Úc, và đã có nghiệm là lợi nhuận biến động mạnh do chu kỳ thị trường.
Mỹ đã tăng đáng kể sự tham gia của mình trong thị trường thế giới thông qua những nỗ lực hợp tác, trong đó có cả hỗ trợ giá nội trợ. Có tiềm năng xuất khẩu đáng kể về pho mát và sữa bột trong tương lai. Xuất khẩu quan trọng đối với Hoa Kỳ đã trải thập kỷ tiêu thụ nội địa yếu hơn.
Một thách thức chính cho ngành sữa của Mỹ là mối áp lực đè lên sự tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu với các hạn chế tăng lên đối với tăng trưởng trong tương lai sản xuất sữa ở các vùng trọng điểm. Những áp lực sẽ đến từ:
  • Hệ thống sản xuất quy mô lớn đối mặt với chi phí thức ăn tăng, khi mà thị trường thức ăn chăn nuôi thế giới trở nên chặt chẽ hơn và ổn định hơn theo thời gian
  • Cạnh tranh sử dụng đất và nước mạnh hơn ở các bang phát triển về phía tây nam
  • Các rào cản cho sự phát triển trang trại mới từ cộng đồng địa phương
  • Khả năng chi trả theo quy định an toàn mạng cho các nhà sản xuất trong thời gian dễ biến động.
3.3.            Trung Quốc
Thị trường Trung Quốc đã chứng kiến ​​sự tăng trưởng nhanh chóng về nhu cầu tiêu dùng sản phẩm đa dạng và phân khúc thị trường, và đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn nhiều so với việc mở rộng năng lực của ngành sữa địa phương. Nó được thúc đẩy bởi sự sung túc tăng lên ở khiu vực đô thị.
Các ngành sữa của Trung Quốc còn trẻ, phát triển nhanh chóng, tất cả các hãng chế biến được hình thành gần 20 năm trước. Thị trường tiêu dùng phát triển nhanh chóng của bất chấp an toàn thực phẩm, các vụ bê bối nghiêm trọng về chất lượng sữa đã xẩy ra, gây ảnh hưởng lâu dài đến các phân đoạn thị trường giá trị cao hơn đối với các sản phẩm sữa - đặc biệt là sữa uống và sữa bột.
Trong phản ứng với thất bại chuỗi cung cấp, các nhà chế biến địa phương đang làm lại mô hình các chuỗi giá trị của họ, để tăng tỷ lệ cung cấp sữa được "kiểm soát" mà các nhà máy họ tiệm cận. Chính phủ đang áp đặt chế độ an toàn thực phẩm nghiêm ngặt để xây dựng lòng tin với thương hiệu địa phương. Trong khi lòng tin vào hàng hóa nội địa yếu đi, thì các thương hiệu nước ngoài có danh tiếng an toàn vẫn có nhu cầu, đặc biệt là ở thị trường thành phố.
Chi phí sản xuất cao cũng như hạn chế nước và thức ăn sẽ tiếp tục tạo nên đối bất lợi cho ngành sản xuất sữa nội địa và như thế sẽ gây những hạn chế lớn đến khả năng của ngành sữa để đáp ứng nhu cầu trong tương lai.
Có nhiều quan điểm khác nhau về khả năng của ngành công nghiệp sản xuất sữa Trung Quốc để bắt kịp với nhu cầu tiêu dùng trong 10 năm tiếp theo. Quan điểm của Fonterra là đến năm 2020 nước này cần tới 11 tỷ lít sữa. Nhưng quan điểm đó cũng dựa trên khả năng của ngành sữa địa phương tăng gần gấp đôi sản lượng sữa trong nước giữa 2010-2020.
3.4.            Tân Tây lan
Sản xuất sữa của New Zealand tăng trưởng mạnh mẽ trong thập kỷ qua phần lớn do được hỗ trợ bởi một nền văn hóa kinh doanh cố thủ, thứ đã tạo nòng cốt cho việc đặt trọng tâm vào việc tạo ra sự giàu có.
Điều này đã thúc đẩy tăng trưởng trong các doanh nghiệp sữa hiện có, và cung cấp động lực cho chuyển đổi đất từ mục đích sử dụng khác vào sản xuất sữa.
Sự thống trị sân chơi của một cầu thủ và một tầm nhìn xuất khẩu đã dẫn dắc ngành này. Các cách thức thay thế nhỏ khác cho thị trường đang trên đường phát triển nhằm cung cấp thêm những lựa chọn mới cho các nhà sản xuất.
Không như thứ ngôn ngữ được dùng trong lĩnh vực sản xuất của ngành này ở Úc, ở đây có rất ít cuộc thảo luận về giá sữa – mà ngôn ngữ tập trung vào tính bền vững của việc tạo ra sự giàu có đầy đủ thông qua đầu tư và thực hành tốt hơn.
Văn hóa này cần tiếp tục để củng cố sự tăng trưởng sản lượng trong tương lai, nhưng các hạn chế về tiềm năng cũng đã rõ hơn (Xem hộp sau).
Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của hạn chế đó. Rabobank cho là tăng trưởng trong quá khứ đó sẽ không lặp lại trong năm 2012 đã qua và rằng ngay cả tốc độ tăng trưởng 2-3 năm theo dự kiến ​​của Fonterra sẽ là một thách đố.
Những biện pháp để tăng hiệu suất đất đai và bò sữa sẽ được thêm vào chi phí sản xuất, đặc biệt là ở các doanh nghiệp vùng South Island. Điều này có thể gây hại đến khả năng của các nhà sản xuất quản lý biến động thị trường dự kiến.
Giới hạn về tiềm năng tăng trưởng của Tân Tây lan?
Các vấn đề sau đây có thể hạn chế tốc độ tăng trưởng trong tương lai:
Các biện pháp điều tiết được áp đặt bởi các hội đồng khu vực để giải quyết các tác động môi trường của sản xuất sữa trong các khu vực nhạy cảm.
Đây là những dự kiến ​​sẽ bao gồm giới hạn về sử dụng đất, mật độ giá và tiếp cận nguồn nước.
Các trang trại có quy mô lớn hơn sẽ tìm cách sử dụng nhiều thức ăn bổ sung, dẫn đến chi phí gia tăng và sự phức tạp và đối mặt lớn hơn với sự biến động.
Sẽ ít có cơ hội hơn trong việc chuyển đổi đất đai có sẵn và các rào cản kỹ thuật cao hơn cho doanh nghiệp mới.
3.5.            Australia
Ngành công nghiệp sữa của Australia nằm ở ngã tư đường, nó đã không phát triển như một ngành vốn lừng danh trong thập kỷ qua. Những mùa nghèo cắt đi năng lực, nhưng tính không chắc chắn càng ngày càng trở nên tồi tệ bởi khả năng và thái độ của chính chúng ta.
Do khí hậu và biến động thị trường, ngành sữa đã - phải đối mặt với một bộ ngày càng phức tạp của vấn đề quản lý và kỹ thuật trang trại. Trong khi chúng ta đang đầu tư để xem xét các vấn đề, thì nói chung chúng ta đã mất đi khả năng quản lý thành công và phát triển sự giàu có trên trang trại bò sữa theo thời gian thông qua các chu kỳ hàng hóa không thể tránh khỏi. Ngành sữa đã nêu bật những thách thức, nhưng chưa đưa ra được các giải pháp toàn ngành hiệu quả. Chiều theo những người không phải là đầu bảng, ngành sữa đã không kỷ niệm thắng lợi, điều này gây hạn chế tới sức hấp dẫn của ngành sữa như một nơi để làm việc và đầu tư.
• Thay vì nhìn thấy cơ hội trong biến động để thu hoạch cái cao và chế ngự cái thấp, một mối quan tâm ngắn hạn với rủi ro đã cản trở các khả năng ứng phó với một thị trường sữa ngày càng tăng.
Các hạn chế cung cấp sữa đã dẫn đến thiếu đầu tư công nghệ và quy mô trong các nhà máy sữa của chúng ta – và kết quả ngành sữa Australia là không đủ sức cạnh tranh trong chuỗi cung ứng của chúng ta. Ngành sữa hoạt động mô hình manh mún, cạnh tranh, với nhà máy nhỏ, chi phí cao so với chuẩn thế giới, và hạn chế kết hợp với kinh doanh của khách hàng.
Các cộng đồng sẽ yêu cầu trách nhiệm nhiều hơn cho thực hành và tác động ngành sữa trong tương lai. Thường có một nhận thức tiêu cực đó là đưa các yêu cầu này sẽ tăng thêm chi phí và phân phối ít lợi nhuận.
Các mô hình vận động ngành sữa lỗi thời và thiếu nguồn lực để tác động tích cực đến chương trình nghị sự luận về các điều khoản đó ngành công nghiệp địa chỉ nhu cầu và hoàn cả

 


No comments:

Post a Comment